Để các chính sách được triển khai đạt hiệu quả cao, mang lại động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của giáo dục đại học và khoa học – công nghệ, vấn đề giải trình trách nhiệm cần được đặt lên hàng đầu, đồng thời yêu cầu thiết lập hệ thống giám sát nhiều cấp độ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo mới đây đã phát hành để lấy ý kiến dự thảo Tờ trình cùng dự thảo Nghị định quy định về việc người có quốc tịch nước ngoài tham gia hoạt động quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học cũng như trao đổi học thuật tại những đơn vị giáo dục trên lãnh thổ Việt Nam.
Những nội dung đổi mới trong văn bản dự thảo đang thu hút sự theo dõi sát sao từ nhiều đơn vị giáo dục, đặc biệt tập trung vào khu vực các trường đại học.
Cơ chế đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực đại học
Trong cuộc trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trung Tính – người lãnh đạo Đại học Cần Thơ chia sẻ quan điểm: “Việc loại bỏ yêu cầu về giấy phép lao động dành cho chuyên gia thực tế không hẳn là một sáng kiến chính sách hoàn toàn mới lạ, bởi trước đó, trong Nghị định số 11/2016/NĐ-CP và Nghị định số 152/2020/NĐ-CP đã có những điều khoản liên quan đến việc miễn giấy phép lao động cho nhóm chuyên gia đến từ nước ngoài.
Tuy vậy, điểm nổi bật trong văn bản Nghị định dự thảo lần này nằm ở chỗ những điều kiện cũng như thẩm quyền xác định với nhóm ‘chuyên gia’ đảm nhận công việc giảng dạy được làm rõ ràng hơn nhiều. Từ đó, quá trình thực thi sẽ thuận lợi hơn đáng kể và kỳ vọng rằng những cơ sở đào tạo đại học như Đại học Cần Thơ sẽ có khả năng thu hút các chuyên gia, lực lượng lao động đến từ nước ngoài làm việc tại đơn vị một cách chính xác với nhu cầu phát triển và nâng cao chất lượng của cơ sở.
Theo nhận định của tôi, các tiêu chí trong quy định đã đầy đủ để bảo đảm chất lượng với nhóm chuyên gia, hoàn toàn có năng lực đáp ứng các tiêu chuẩn dành cho giảng viên, nhà nghiên cứu của những cơ sở đào tạo, nghiên cứu. Văn bản dự thảo quy định đã dựa trên thực tiễn và có sự tương thích với những quy định khác của hệ thống pháp luật đang có hiệu lực”.
Chia sẻ về vấn đề này, Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Đắc Lộc – người đứng đầu Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh cũng nhận xét: “Trong thời gian tới, việc bỏ yêu cầu giấy phép lao động đối với chuyên gia, nhà khoa học có quốc tịch nước ngoài với những tiêu chuẩn bảo đảm chất lượng, sẽ đánh dấu một bước nhảy vọt đột phá. Chính sách này sẽ tạo ra 3 lợi thế chiến lược như sau:
- Thứ nhất, loại bỏ ‘trở ngại’ về mặt hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh: Các thủ tục để xin cấp giấy phép lao động hiện tại vẫn còn tương đối phức tạp và tốn kém thời gian, đây chính là một trong những trở ngại từ giai đoạn đầu khiến nhiều chuyên gia do dự. Việc bỏ yêu cầu giấy phép sẽ giúp cho quy trình mời chuyên gia trở nên nhanh gọn, linh động hơn rất nhiều, hỗ trợ các đơn vị giáo dục Việt Nam cạnh tranh công bằng hơn với những quốc gia khác trong khu vực trong cuộc chạy đua thu hút nhân tài trên phạm vi toàn cầu.
- Thứ hai, nâng cao sự linh động trong các hoạt động hợp tác ngắn hạn: Chính sách này đặc biệt có ích cho việc mời những giáo sư, nhà khoa học hàng đầu thế giới đến giảng dạy, thực hiện các buổi nói chuyện chuyên đề, hoặc cộng tác nghiên cứu trong khoảng thời gian ngắn (từ vài tuần đến vài tháng). Với những hoạt động như thế, việc đòi hỏi một giấy phép lao động đầy đủ là không hợp lý và làm bỏ lỡ nhiều cơ hội hợp tác có giá trị.
- Thứ ba, thúc đẩy tiến trình quốc tế hóa cho giáo dục đại học: Khi các thủ tục được làm đơn giản, các trường sẽ có nhiều chủ động và quyết đoán hơn trong việc mời chuyên gia quốc tế, từ đó tăng tốc độ quốc tế hóa chương trình giảng dạy, hoạt động nghiên cứu khoa học và nâng cao vị thế của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam”.
Giáo sư Hồ Đắc Lộc nhận định, đây chính là một sự dịch chuyển trách nhiệm hợp lý: “Thay vì phụ thuộc vào một quy trình hành chính (giấy phép lao động), chất lượng chuyên gia lúc này sẽ được bảo đảm bởi uy tín và quy trình đánh giá nội bộ của chính những cơ sở giáo dục. Văn bản dự thảo đã giao quyền tự chủ nhưng cũng kèm theo đó là trách nhiệm giải trình vô cùng lớn đối với các trường.
Chúng ta cần thực hiện tốt hai công việc. Đầu tiên, quy định cụ thể tiêu chuẩn ‘chuyên gia’: Nghị định cần làm rõ các tiêu chí liên quan đến bằng cấp, kinh nghiệm, thành tích về khoa học/công nghệ để các trường có căn cứ áp dụng. Thứ hai, tăng cường công tác hậu kiểm: Những cơ quan quản lý nhà nước cần có cơ chế giám sát, kiểm tra sau khi những trường mời chuyên gia, bảo đảm việc miễn giấy phép được thực thi đúng mục đích, đúng đối tượng”.
Giáo sư Hồ Đắc Lộc cũng bổ sung thêm: “Điều 7 của văn bản dự thảo làm rõ những yêu cầu về trình độ chuyên môn với người có quốc tịch nước ngoài tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật tại những cơ sở giáo dục. Việc đưa ra những yêu cầu cụ thể về trình độ và kinh nghiệm như thế là vô cùng thiết yếu để bảo đảm chất lượng đầu vào, tránh tình trạng chính sách bị lợi dụng sai mục đích.
- Đặc biệt, việc ưu tiên những người sở hữu chức danh giáo sư, phó giáo sư, viện sĩ là một định hướng chiến lược vô cùng đúng đắn. Điều này không chỉ hỗ trợ thu hút những cá nhân xuất sắc, mà còn tạo ra hiệu ứng lan tỏa đáng kể.
- Trước hết, thu hút những nhân tài đỉnh cao: Những giáo sư, viện sĩ hàng đầu thế giới thường có những yêu cầu vô cùng cao về môi trường làm việc và sự tôn trọng về mặt học thuật. Một chính sách ưu tiên, linh hoạt là tín hiệu cho thấy Việt Nam thực sự trân trọng và sẵn lòng trải thảm đỏ chào đón họ.
- Đồng thời, nâng tầm thương hiệu về mặt học thuật: Sự xuất hiện của những học giả có tiếng tăm sẽ hỗ trợ nâng cao uy tín và thứ hạng của những trường đại học Việt Nam trên bản đồ học thuật thế giới.
- Mặt khác, xây dựng những nhóm nghiên cứu có sức mạnh: Những giáo sư đầu ngành không chỉ mang đến tri thức, mà còn mang theo cả hệ thống quan hệ quốc tế, kinh nghiệm xây dựng và lãnh đạo những nhóm nghiên cứu mạnh; từ đó, hỗ trợ đào tạo và phát triển đội ngũ những nhà khoa học thế hệ kế cận của Việt Nam”.
Một số ‘trở ngại’ cần được giải quyết khác
Bên cạnh vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính, Giáo sư Hồ Đắc Lộc cũng chỉ rõ, thực tế cho thấy hiện vẫn tồn tại một số ‘trở ngại’ cần được xem xét giải quyết.
- Chẳng hạn, chế độ đãi ngộ và điều kiện làm việc: Mức thu nhập và những phúc lợi dành cho chuyên gia có quốc tịch nước ngoài tại Việt Nam nhìn chung vẫn chưa đủ sức cạnh tranh so với những quốc gia trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Malaysia. Hơn nữa, điều kiện nghiên cứu, cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học còn nhiều hạn chế.
- Cơ chế về tài chính và tự chủ đại học: Nhiều trường vẫn bị ràng buộc bởi những quy định về tài chính công, khó có thể xây dựng một gói đãi ngộ đặc biệt đủ hấp dẫn để thu hút những chuyên gia hàng đầu.
- Điều kiện sống và hòa nhập: Những vấn đề liên quan đến ngôn ngữ, dịch vụ hỗ trợ cho gia đình (trường học cho con cái, y tế…), và sự khác biệt về văn hóa cũng là những yếu tố mà những chuyên gia dài hạn cân nhắc.
Để giải quyết những trở ngại này, theo Giáo sư Hồ Đắc Lộc, cần những giải pháp đồng bộ như sau:
- Về chính sách: Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi đặc thù liên quan đến thuế thu nhập cá nhân, cho phép những trường đại học, đặc biệt là những trường tự chủ, được xây dựng quỹ lương đặc biệt dành cho nhân tài quốc tế.
- Về đầu tư: Tăng cường đầu tư có trọng điểm để xây dựng một vài trung tâm nghiên cứu xuất sắc (center of excellence) đạt chuẩn quốc tế, tạo ra điều kiện làm việc đủ sức hấp dẫn.
- Về hỗ trợ: Những trường đại học cần thành lập những văn phòng hỗ trợ chuyên nghiệp (International Office) để giúp đỡ những chuyên gia và gia đình họ trong quá trình làm việc và sinh sống tại Việt Nam.
- Về vấn đề này, Phó Giáo sư Trần Trung Tính cho rằng: “Văn bản dự thảo Nghị định này và những văn bản có liên quan vẫn còn quy định việc ‘chỉ tiếp nhận người có quốc tịch nước ngoài đối với vị trí công việc, chuyên môn mà lao động trong nước chưa đáp ứng hoặc cần bổ sung để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu’.
Đây không hoàn toàn là một ‘trở ngại’, tuy nhiên, những cơ sở giáo dục sẽ gặp khó khăn trong việc xác định và chứng minh điều kiện này. Chẳng hạn, nếu Đại học Cần Thơ có nhu cầu tuyển giảng viên có trình độ tiến sĩ để giảng dạy những ngành tiếng Hàn, tiếng Nhật, việc chứng minh là lao động trong nước không đáp ứng được là khó khăn. Mặc dù trong một khoảng thời gian dài, Đại học Cần Thơ không tuyển dụng được vị trí này.
Để giải quyết khó khăn trên, đề xuất quy định một tỷ lệ nhất định đối với việc sử dụng người có quốc tịch nước ngoài trong đội ngũ giảng dạy, nhằm hạn chế việc tuyển dụng tràn lan người có quốc tịch nước ngoài, nhưng vẫn bảo đảm được mục tiêu hướng tới đạt những chuẩn mực hội nhập và gia tăng vị trí trong những bảng xếp hạng quốc tế”.
Quyền hạn đồng hành cùng trách nhiệm
Theo người đứng đầu Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Điều 9 về Quyền hạn, trách nhiệm của cơ sở giáo dục của Việt Nam là điều khoản then chốt, thể hiện đúng tinh thần của sự tự chủ đại học: Quyền hạn đồng hành cùng trách nhiệm. Việc giao quyền cho những cơ sở giáo dục tự quyết định mời chuyên gia là một bước đi đúng đắn, giúp các trường trở nên năng động và chủ động hơn. Tuy nhiên, trách nhiệm giải trình phải được đặt lên hàng đầu.
Theo đó, để bảo đảm những quy định được thực thi nghiêm túc, cần một cơ chế giám sát nhiều tầng:
- Giám sát nội bộ: Bản thân mỗi cơ sở giáo dục phải xây dựng một quy trình đánh giá nội bộ chặt chẽ, công khai và minh bạch (ví dụ: thông qua Hội đồng Khoa học và Đào tạo) trước khi quyết định mời một chuyên gia.
- Giám sát từ cơ quan quản lý: Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thực hiện cơ chế hậu kiểm. Các trường phải có trách nhiệm báo cáo định kỳ danh sách và hoạt động của những chuyên gia được mời theo diện miễn giấy phép lao động. Bộ có thể tiến hành kiểm tra đột xuất hoặc định kỳ để đánh giá việc tuân thủ.
- Giám sát chéo và cộng đồng: Cần có sự minh bạch về thông tin. Việc công khai danh sách chuyên gia đang làm việc tại các trường sẽ giúp cộng đồng học thuật và xã hội cùng tham gia giám sát, bảo đảm chất lượng và uy tín chung.
Theo Phó Giáo sư Trần Trung Tính, quyền hạn và trách nhiệm của cơ sở giáo dục đã được quy định rõ trong dự thảo, làm căn cứ cho những cơ sở giáo dục thực hiện, cũng là một điều kiện để cơ sở giáo dục tăng cường tính tự chủ trong việc xây dựng chiến lược, xác định nhu cầu, tuyển dụng và sử dụng người lao động có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục.
Để thực thi quyền hạn và trách nhiệm theo quy định, cơ sở giáo dục cần xác định đúng nhu cầu và chất lượng của người lao động có quốc tịch nước ngoài, như việc bảo đảm tính chính xác và hợp pháp của những thông tin do người lao động có quốc tịch nước ngoài tự kê khai. Mặt khác, cơ sở giáo dục cần hoàn thiện hệ thống văn bản quy định, quy trình bảo đảm chất lượng, quy trình công tác nội bộ để chủ động trong việc quản lý, giám sát người lao động có quốc tịch nước ngoài.
Để bảo đảm việc thực thi quyền hạn, trách nhiệm của cơ sở giáo dục một cách hiệu quả và đúng quy định của pháp luật, những cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện tốt chức năng quản lý, có chế độ kiểm tra việc thực hiện của cơ sở giáo dục và chế tài phù hợp đối với những trường hợp vi phạm quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục sử dụng và quản lý người lao động có quốc tịch nước ngoài”.
Phó Giáo sư Trần Trung Tính cũng chỉ ra, việc thu hút, tuyển dụng chuyên gia, người lao động có trình độ cao tham gia giảng dạy, nghiên cứu và trao đổi học thuật tại cơ sở giáo dục tạo điều kiện vô cùng tốt cho việc nâng cao chất lượng giáo dục và tăng tính quốc tế hóa cho giáo dục trong nước. Tuy nhiên, đối với những quy định hiện hành, giảng viên chủ trì ngành đào tạo tại cơ sở giáo dục đại học công lập phải là người được tuyển dụng theo quy định của Luật viên chức, điều này gây khó khăn cho việc tận dụng uy tín và năng lực của chuyên gia có quốc tịch nước ngoài trong việc tuyển sinh, mở ngành đào tạo của cơ sở giáo dục đại học.
Ngoài ra, Giáo sư Hồ Đắc Lộc cũng góp ý thêm: “Cần linh hoạt hóa định nghĩa ‘chuyên gia’: Ngoài những chức danh học thuật truyền thống, Nghị định nên có điều khoản mở cho những ‘chuyên gia thực chiến’ từ những tập đoàn công nghệ, những doanh nghiệp lớn. Họ có thể không có bằng cấp cao, nhưng lại sở hữu tri thức, kỹ năng thực tiễn vô giá mà sinh viên vô cùng cần.
Phân loại thủ tục theo khoảng thời gian làm việc: Nên có sự phân biệt rõ ràng hơn trong thủ tục giữa chuyên gia làm việc rất ngắn hạn (dưới 30 ngày) và chuyên gia làm việc dài hạn (từ 3 tháng đến 1 năm). Thủ tục cho những trường hợp ngắn hạn có thể được đơn giản hóa tối đa.
Xây dựng cơ sở dữ liệu cấp quốc gia: Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể xây dựng một cơ sở dữ liệu chung về những chuyên gia có quốc tịch nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam. Điều này không chỉ giúp công tác quản lý tốt hơn mà còn tạo điều kiện để các trường chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và cùng nhau hợp tác”.
Giáo sư Hồ Đắc Lộc nhấn mạnh, đây là một văn bản dự thảo có tầm nhìn, thể hiện tư duy đổi mới và quyết tâm hội nhập của ngành giáo dục. Nếu được triển khai tốt cùng những giải pháp đồng bộ, ông tin rằng chính sách này sẽ tạo ra một ‘cú hích’ lớn cho sự phát triển của giáo dục đại học và khoa học công nghệ tại Việt Nam.
Trong bối cảnh xu hướng quốc tế hóa giáo dục đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, việc tiếp cận nguồn nhân lực giảng dạy quốc tế chất lượng cao đang trở thành yếu tố then chốt quyết định sự thành công. EIV Education đã và đang khẳng định vị thế tiên phong trong lĩnh vực cung ứng giáo viên bản ngữ chất lượng cao cho các trường học, trung tâm ngoại ngữ và doanh nghiệp.
Với quy trình tuyển chọn gồm 6 bước nghiêm ngặt và hệ thống quản lý chuyên nghiệp, EIV bảo đảm mỗi giáo viên đều sở hữu trình độ chuyên môn vượt trội, kinh nghiệm thực tế phong phú và khả năng thích ứng tốt với văn hóa Việt Nam – giải pháp tối ưu giúp nâng tầm chất lượng giáo dục của đơn vị bạn.
Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm: Nội dung bài viết được biên tập lại từ nguồn thông tin công khai nhằm mục đích chia sẻ kiến thức và trao đổi chuyên môn trong lĩnh vực giáo dục. Nếu có bất kỳ vấn đề nào liên quan đến bản quyền, vui lòng liên hệ với quản trị viên để được hỗ trợ xóa bỏ nội dung kịp thời.